x: Lịch sử \'chuyện tình\' của người Nhật với mèo: Khi ghét cực độ, lúc yêu đến phát cuồng
Người Nhật vốn yêu mèo, nhìn lướt qua bất cứ thứ gì liên quan đến văn hóa đại chúng Nhật Bản sẽ cho thấy điều này, ví dụ như Hello Kitty, những quán cà phê mèo, truyện tranh và hoạt hình... Hay điểm đến du lịch nổi tiếng Gotokuji - một ngôi chùa ở phường Setagaya của Tokyo, nơi tự xưng là quê hương ban đầu của Maneki Neko tức "con mèo chiêu tài may mắn". Hoặc ngôi đền mèo nổi tiếng Nyan Nyan Ji ở Kyoto có một nhà sư mèo thực sự với một số mèo con làm chú tiểu.
Mèo có ở khắp mọi nơi trên đất nước Nhật Bản, cùng với Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật Bản là một quốc gia phát cuồng vì mèo. Có thể dễ dàng nhận thấy chúng được yêu mến rất nhiều, nhưng trên thực tế người Nhật cũng rất sợ mèo. Đất nước này có một lịch sử văn hóa dân gian lâu đời, với những câu chuyện đáng sợ liên quan đến lũ mèo siêu nhiên và quái dị. Văn học ghi chép về ma thuật của Nhật Bản là một kho tàng vô cùng đáng nể, nhắc tới những con yêu quái biến hình huyền ảo (Bakeneko) sử dụng yêu thuật đến lũ mèo quỷ ăn xác ghê rợn (Kasha), bài viết này sẽ khái quát về một lịch sử kỳ lạ của loài mèo tại Nhật.
Bất kể thực tế là mèo tồn tại ở Nhật Bản từ rất lâu, không ai biết chính xác khi nào và bằng cách nào chúng đã đến đảo quốc này. Dự đoán hợp lý nhất là chúng đi theo con đường tơ lụa từ Ai Cập đến Trung Quốc và Triều Tiên, sau đó băng qua mặt biển trên thuyền của những thương gia hoặc sư thầy đi truyền đạo. Chúng đến Nhật với tư cách là những người canh gác các quyển kinh điển Phật giáo quý giá được viết trên giấy vellum, hoặc giữ những món quà đắt tiền được trao đổi giữa các hoàng đế hoặc quý tộc khỏi loài chuột. Rất có thể cả hai trường hợp này đã xảy ra vào những thời điểm khác nhau trong lịch sử.
Thế nhưng, để xác minh những ghi nhận đầu tiên về sự hiện diện của một con mèo ở Nhật Bản, chúng ta phải tìm đến những trang nhật ký cổ xưa của một vị Thiên Hoàng. Vào ngày 11 tháng 3 năm 889, Thiên Hoàng Uda, lúc đó 17 tuổi, đã viết:
“Vào ngày thứ 6, tháng thứ 2 của năm đầu tiên thuộc kỷ nguyên Kampo. Dành một chút thời gian rảnh rỗi, tôi muốn bày tỏ niềm vui của mình với chú mèo. Nó đến bằng thuyền như một món quà cho cố Hoàng đế, nhận được từ tay của Minamoto no Kuwashi. Màu sắc bộ lông đẹp vô song.
Không ai có thể tìm thấy từ ngữ đủ để mô tả nó, mặc dù một người nói rằng lông nó gợi nhớ đến màu đen của loại mực thượng hạng nhất. Nó có một khí chất riêng biệt, tương tự như Kanno. Chiều dài của nó là 5 thốn, và chiều cao của nó là 6 thốn*. Tôi đã gắn một chiếc nơ vào cổ nó, nhưng nó không giữ được lâu.
Trong khi nổi loạn, nó nheo mắt và xòe móng. Nó cong lưng lên. Khi nằm xuống, nó cuộn tròn lại như một đồng xu. Bạn không thể nhìn thấy chân của nó. Nó như thể là một đĩa ngọc hình tròn. Khi nó đứng, tiếng kêu của nó thể hiện sự cô đơn sâu sắc, giống như một con rồng đen lơ lửng trên mây.
Về bản chất, nó thích rình rập các loài chim. Nó cúi thấp đầu và hoạt động đuôi. Nó có thể kéo dài cột sống của mình để nâng chiều cao lên ít nhất 2 thốn. Màu sắc của nó cho phép nó biến mất vào màn đêm. Tôi tin chắc rằng nó vượt trội hơn tất cả những con mèo khác."
Như bạn có thể thấy, dù là hoàng đế hay nông dân, dù giàu hay nghèo, những người nuôi mèo dường như không thay đổi mấy trong nhiều thiên niên kỷ qua, họ vẫn có chung một điểm đó là luôn yêu quý đến mức sủng ái con mèo của mình một cách lạ kỳ, và luôn cho rằng nó ưu việt hơn những con mèo khác.
Mặc dù ban đầu mèo được buôn bán như một vật vô giá ở Nhật Bản, thế nhưng không giống như vàng, đá quý hoặc lụa quý hiếm, những báu vật biết kêu meo meo này có khả năng làm một điều mà những vật giá trị khác không thể: nhân giống để tăng số lượng lên. Mèo đẻ ra ngày càng nhiều mèo hơn. Trải qua nhiều thế kỷ, loài mèo được sinh sản và lan rộng, cho đến thế kỷ 12 chúng phổ biến trên khắp đảo quốc Nhật Bản.
Đó là lúc chúng bắt đầu biến đổi.
Từ lâu, Nhật Bản đã có quan niệm dân gian rằng khi mọi vật sống quá lâu, chúng sẽ biểu hiện ra sức mạnh ma thuật kỳ diệu. Có rất nhiều câu chuyện cổ giải thích lý do tại sao điều này đúng với cáo, tanuki (lửng chó Nhật Bản), rắn, và thậm chí cả đồ vật như ghế, chổi. Tuy nhiên, mèo dường như có phần độc đáo trong vô số sức mạnh mà chúng được tin là có thể biểu hiện, trong vô số hình dạng của chúng. Có lẽ niềm này xuất phát từ việc chúng không phải là sinh vật bản địa của Nhật Bản.
Trong khi xã hội Nhật Bản phát triển cùng với cáo và tanuki, mèo sở hữu khí chất đến từ bên ngoài thế giới mà người Nhật biết đến. Kết hợp điều đó với bản chất bí ẩn tự nhiên của mèo, khả năng co giãn linh hoạt đến mức dường như không tự nhiên của chúng, hay cách chúng có thể đi lại mà không gây ra tiếng động và đôi mắt phát sáng thay đổi hình dạng trong bóng đêm, đó là công thức hoàn hảo cho một loài động vật kỳ diệu, hay "yêu quái".
Biến thể siêu nhiên đầu tiên được biết đến của một con mèo ở Nhật Bản là vào thế kỷ 12, theo các báo cáo, có một con mèo hai đuôi khổng lồ, ăn thịt người được mệnh danh là Nekomata đã rình rập khu rừng nọ, nơi ngày nay là quận Nara. Cố đô của Nhật Bản - Nara được bao quanh bởi núi và rừng. Những người thợ săn và tiều phu thường xuyên vào những khu rừng quanh thành phố này để tìm đồ về bán. Họ biết rõ những mối nguy hiểm chung khi đi rừng, thế nhưng con quái vật mèo này vượt xa những gì họ mong đợi sẽ gặp phải.
Theo báo chí địa phương vào thời điểm đó, một số người đã chết dưới nanh vuốt của Nekomata. Được mô tả là to lớn và mạnh mẽ, chúng giống như những con hổ hơn là vật nuôi được cưng chiều của Thiên Hoàng Uda. Trên thực tế, Nekomata có thể thực sự là một con hổ. Ngày nay, có suy đoán rằng truyền thuyết về Nekomata xuất phát từ một con hổ trốn thoát, nó vốn được mang từ Trung Quốc sang. Nếu bạn nghe quen quen, thì Nekomata chính là con mèo truyền cảm hứng cho "Nhị Vĩ" - Matatabi được phong ấn bên trong Yugito Nii của Làng Mây.
Khi kết thúc thế kỷ 12, những câu chuyện về Nekomata và loài mèo yêu quái đã lặng đi trong vài thế kỷ. Sau đó là sự trỗi dậy của thời kỳ Edo, khi quần thể mèo yêu quái của Nhật Bản thực sự bùng nổ. Bắt đầu từ khoảng năm 1600, đất nước này đã trải qua giai đoạn nở rộ của nghệ thuật và văn hóa. Nhà hát kịch Kabuki, Sushi, các nghệ nhân khắc tranh gỗ Ukiyoe, Geisha, những ấn bản đầu tiên ở Nhật ra đời. Tất cả những hiện tượng của thời Edo này đã dẫn đến sự phát triển rực rỡ của ngành công nghiệp ghi chép và in ấn tài liệu dành cho mọi tầng lớp theo nhiều cách, đó chính là tiền thân của manga.
Và rồi, dường như các nhà văn và nghệ sĩ sớm phát hiện ra, đất nước đang thiếu thốn những câu chuyện ly kỳ về ma thuật, họ bắt đầu thêu dệt ra những con quái vật Nhật Bản mà sau đó được gọi là "yokai" - tức yêu quái xuất phát từ trí tưởng tượng phong phú để phục vụ các tầng lớp nhân dân.
Vào thời đó ở Nhật Bản, bất kỳ tác phẩm nghệ thuật hay vở kịch sân khấu nào nhuốm màu siêu nhiên đều trở thành một cú hit chắc chắn. Trong thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật này, một loài mèo siêu nhiên mới đã xuất hiện - chú mèo Bakeneko biết thay hình đổi dạng. Khi Nhật Bản đô thị hóa, quần thể mèo và người cùng tăng lên. Bây giờ, mèo đã ở khắp mọi nơi, không chỉ như những con vật nuôi trong nhà để bắt chuột mà còn đi lang thang tìm kiếm đồ ăn rơi vãi vụn vặt từ những quầy sushi hoặc ramen bên lề đường.
Rồi người ta bắt đầu thêu dệt rằng chúng có thể biến thành hình người. Những ngôi nhà Nhật Bản hầu hết được thắp sáng bằng đèn dầu cá, còn mèo thì thích liếm trộm dầu vào ban đêm, dưới ánh đèn rực rỡ, chúng đổ bóng lớn lên tường, dường như biến thành những sinh vật to lớn đứng bằng hai chân khi duỗi thẳng người. Theo truyền thuyết, những con mèo sống lâu ngày một cách khác thường đã tiến hóa thành những con Bakeneko đáng sợ, có thể giết chủ nhân và chiếm lấy vị trí của gia chủ.
Tuy nhiên, trong trí tưởng tượng phong phú của người Nhật, không phải tất cả Bakeneko đều giết người. Vào khoảng năm 1781, có tin đồn bắt đầu lan truyền rằng một số cung nữ của các khu "phố đèn đỏ" Yoshiwara ở thủ đô Edo hoàn toàn không phải là con người, mà toàn là Bakeneko biến hình. Ý tưởng rằng việc đi qua các cánh cửa của Yoshiwara có nghĩa là được "chơi" yêu quái biến thành người khiến nơi đây ngày càng đắt khách. Cuối cùng, những câu chuyện hoang đường này đã mở rộng ra ngoài phạm vi Edo để thay đổi toàn bộ thế giới bí ẩn của loài mèo. Các diễn viên kịch Kabuki, các Geisha, diễn viên hài và các cô gái làng chơi khác lúc này đều được cho là do mèo biến thành. Khi những con mèo này rời nhà vào ban đêm, chúng mặc kimono, cầm theo rượu sake và kéo đàn shamisen, chúng tổ chức các bữa tiệc hoang đàn trước khi trở về nhà vào lúc bình minh.
Những câu chuyện này hấp dẫn đến mức không thể cưỡng lại được, các nghệ sĩ đã tạo ra nhiều hơn nữa các bức tranh minh họa về thế giới hoang dã của những chú mèo nhảy múa và uống rượu vào buổi tối. Những con mèo được miêu tả là giống mèo lai giữa người và mèo được nhân hóa, thế nên chúng có hình dạng mèo nhưng đi bằng hai chân (mặc dù Bakeneko cũng có khả năng biến hình thành người hoàn toàn). Chúng hút tẩu, chơi xúc xắc và làm đủ thứ trò khác theo trí tưởng tượng của người họa sĩ.
Mặc dù Bakeneko là loài mèo ma thuật phổ biến nhất ở Nhật Bản và chắc chắn là loài hấp dẫn nhất về mặt nghệ thuật, vẫn có những con mèo yêu quái ẩn nấp trong những góc tối hơn.
Ví dụ như Kasha - một con quỷ từ địa ngục chuyên săn xác chết, giống như Nekomata và Bakeneko, Kasha đã từng là những con mèo nhà bình thường. Thế nhưng, mùi hôi thối của những xác chết khiến nó khao khát được ăn no nê đến nỗi bị biến thành con quỷ rực lửa. Bằng sức mạnh tiềm tàng của mình, chúng được cho là có thể điều khiển xác chết như những con rối, khiến chúng đứng dậy và nhảy múa. Câu chuyện về Kasha đến nay vẫn là một phần của văn hóa về dịch vụ tang lễ ở Nhật Bản. Theo phong tục, sau khi một người qua đời, người thân của họ sẽ tổ chức nghi lễ để đưa thi thể về nhà và gia đình quây quần xung quanh, lúc này mèo được đưa ra khỏi phòng nơi tổ chức nghi lễ vì người ta sợ khi tiếp xúc với xác chết, nó sẽ biến thành quỷ Kasha.
Một số sinh vật mèo, như Neko-Musume, được cho là con lai giữa mèo và người. Chúng sinh ra từ lời nguyền của mèo đối với những người chế tạo nhạc cụ truyền thống gọi là đàn shamisen, vốn sử dụng da mèo để bọc thùng đàn. Một nhà sản xuất đàn shamisen quá tham lam có thể bị nguyền rủa với một đứa con gái Neko-Musume như một sự trả thù. Thay vì sinh ra cô con gái khỏe mạnh của loài người, họ sẽ phải chứng kiến con gái mình trong hình dạng con người nhưng không có khả năng nói chuyện mà lại ăn thịt chuột và cào móng vuốt của chúng như mèo.
Thế nhưng, trên tất cả, con mèo nổi tiếng nhất vẫn là Maneki Neko - mèo chiêu tài. Ngôi đền Gotokuji kể về chú mèo tình cờ đã cứu một lãnh chúa samurai khỏi bị sét đánh trong trận bão kinh hoàng. Lãnh chúa để trả ơn đã trao quyền bảo trợ của mình cho ngôi đền, nơi này vẫn tồn tại đến ngày nay và được phép bán hàng nghìn tượng mèo cho những du khách đang háo hức được chia sẻ sự may mắn đó.
Một câu chuyện khác lại kể về bà lão nghèo nọ, một ngày kia có con mèo đến gặp bà trong giấc mơ và bảo bà hãy tạc tượng mèo từ đất sét để bán ở chợ. Bà ta làm theo và bán ngày càng nhiều tượng mèo cho đến khi về hưu, giàu có và hạnh phúc. Ngày nay, những bức tượng mèo tương tự như vậy vẫn được bán trên toàn thế giới với tên gọi Maneki Neko. Rõ ràng, cả hai câu chuyện trên đều khó có khả năng là sự thật, nhưng điều đó không ngăn cản doanh số bán hàng tăng lên. Nếu nói rằng mèo chính là bậc thầy marketing ở Nhật Bản cũng không sai, chúng giúp phố đèn đỏ đông khách, mang người ta đến với sân khấu và mua vé xem kịch, rồi thúc đẩy doanh số bán hàng cho người nghèo, thật tuyệt vời.
Càng tìm hiểu sâu về văn học nghệ thuật của Nhật Bản, bạn sẽ càng tìm thấy nhiều thứ hơn về loài mèo, từ Gotoko Neko - một con Nekomata gây cháy nhà vào ban đêm hoặc giở trò tinh nghịch bật lò sưởi trong các hộ gia đình để giữ ấm trong ngày đông lạnh giá, đến đảo mèo Tashirojima, nơi số lượng mèo đông hơn người đến 5 lần. Hầu hết những giai thoại về mèo được sinh ra từ thời Edo, tuy nhiên nhiều tác phẩm là văn hóa dân gian đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng đến nhiều nơi trong thế giới mới. Văn học nghệ thuật của Nhật Bản tiếp tục lan rộng và không nghi ngờ gì về việc các hình thức siêu nhiên mới liên quan đến mèo đang được sáng tạo ra ngay bây giờ - trong thời buổi hiện đại. Và đáng ngạc nhiên là, bất kể yêu hay ghét mèo, khi bạn càng đào sâu tìm hiểu, bạn sẽ càng cảm thấy thú vị hơn.
Đọc thêm: Vì sao nói loài mèo có 9 mạng, thực hư như thế nào?
- 0
- 0Bình luận